Biên phòng - Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành bất hủ, không chỉ phản ánh ý chí, khát vọng của toàn dân tộc mà còn trở thành động lực, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân Việt Nam.

Bạn đang xem: Không có gì quý hơn độc lập tự do


Từ đó, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành bất hủ, không chỉ phản ánh ý chí, khát vọng của toàn dân tộc mà còn trở thành động lực, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân Việt Nam trong suốt hành trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng mang tầm chân lý, một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là quyền dân tộc, quyền con người, là xuất phát điểm đối với mọi dân tộc trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc. Dân tộc không thể phát triển, đất nước không thể phồn vinh, nhân dân không thể có cơm no, áo ấm và cuộc sống hạnh phúc nếu không có được độc lập, tự do. Do đó, giành lấy và bảo vệ độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của các dân tộc. Khi độc lập, tự do bị xâm phạm cả dân tộc phải kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập và tự do ấy.

Sau này, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo cũng xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.” (1)

Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.” (2)

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giữ vững ngọn cờ độc lập, tự do, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân nêu cao ý chí, quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” (3)

Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng thời sử dụng không quân và hải quân tăng cường đánh phá miền bắc, lường trước khả năng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có thể còn lan rộng và vô cùng ác liệt, để khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”

Thông qua lời kêu gọi đã thể hiện dân tộc Việt Nam hết sức bình tĩnh trước khó khăn, thách thức, tin tưởng vào sức mình, vào sự đoàn kết của toàn dân tộc. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!.”(4)

Có thể khẳng định, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng mang tính cách mạng sâu sắc và triệt để. Nó gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người-sự nghiệp vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu, hy sinh cả cuộc đời để thực hiện.

Chân lý bất hủ

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội hàm rộng lớn, giá trị to lớn và tính cách mạng sâu sắc. Nó không chỉ là độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn là hạnh phúc của nhân dân. Bởi “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” (6)


Tháng 12-1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến, kêu gọi toàn dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên kháng chiến với quyết tâm: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Ảnh: Nguyễn Bá Khoản/Tư liệu TTXVN

Và nó không chỉ đúng trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược, mà còn có giá trị sâu sắc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, quyết tâm giành lại độc lập tự do đã trở thành mục tiêu to lớn giúp Đảng ta thức tỉnh, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tạo nên sức mạnh to lớn đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945), khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu,” chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp.

Với ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", dân tộc ta đã "đánh cho Mỹ cút." Thừa thắng, quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong 55 ngày đêm tiến công, ta đã "đánh cho ngụy nhào."

Từ đây đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn mong muốn của Bác Hồ và làm sáng ngời hiện thực của chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!" trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!," chúng ta đã vào cuộc trường chinh xây dựng "đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" với công cuộc đổi mới theo sự chỉ dẫn của Bác Hồ: "chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi." Đi theo chỉ dẫn đó, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tiềm lực đất nước và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

Không chỉ được thể hiện ở việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, độc lập tự do còn thể hiện rõ nét thông qua việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội để mang lại cho người dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.” (7) Nền dân chủ và việc bảo đảm phát huy dân chủ không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước.


Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2);

Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3);

“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6)...

Quyền dân chủ của nhân dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) cũng như trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Trưng cầu dân ý, Luật Đất đai, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm y tế...

Về phát triển kinh tế-xã hội, chăm lo cuộc sống của nhân dân, trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Kinh tế tăng trưởng khá đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển. GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 2.715 USD (gấp 15 lần năm 1990). Tỷ lệ hộ nghèo năm 2020 còn dưới 3%. Điều kiện và chất lượng giáo dục ngày càng tăng, trình độ y tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên, từ “ăn no, mặc ấm” dần chuyển sang “ăn ngon, mặc đẹp” kết hợp vui chơi, giải trí.

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gây nhiều khó khăn cho đời sống và sản xuất của người dân và doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người lao động và sử dụng lao động, giúp họ vượt qua khó khăn, có thêm niềm tin vào cuộc sống.

Có thể khẳng định hơn nửa thế kỷ, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nội hàm rộng lớn vẫn luôn là chân lý bất hủ, có giá trị sâu sắc cho đến mãi về sau.

(1): Hồ Chí Minh Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 1.(2): Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 113.(3): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, trang 534.(4), (5): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 12, trang 131.(6): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, trang 64(7): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, trang 84-85.

*

XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA CON NGƯỜI XỨ NGHỆ, Ý CHÍ TỰ CƯỜNG VÀ KHÁT VỌNG VƯƠN LÊN; CHỦ ĐỘNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, ĐƯA NGHỆ AN PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG; ĐẢM BẢO VỮNG CHẮC QUỐC PHÒNG, AN NINH
*

hueni.edu.vn


Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong bản Tuyên ngôn độc lập đến khát vọng xây dựng đất nước “phồn vinh, hạnh phúc” trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng


Đây là tiền đề, là một động lực tinh thần to lớn để nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; là một động lực để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mà ở đó nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất đã được hun đúc qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Bởi giá trị của độc lập, tự dolà sự đánh đổibiết bao hy sinhxương máucủa nhân dânmới giành lại được. Trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, nhân dân Việt Nam đã luôn đấu tranh kiên cường cho quyền độc lập, tự do thiêng liêng ấy “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(1).

Bản Tuyên Ngôn độc lập đã tổng kết và phân tích về quyền con người, quyền của các dân tộc trên thế giới – như là cơ sở công pháp quốc tế - chân lý của nhân loại – mà “không ai có thể vi phạm được”. Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao những những giá trị bất hủ, tiến bộ của nhân loại về quyền bình đẳng, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người. Người khẳng định rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(2). Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Đó là một chân lýcó giá trị thời đại và thực tiễn sâu sắc, trở thành niềm tin, nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, mục tiêu và động lực phấn đấu không ngừng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do, vì sự tồn tại, phát triển trường tồn của dân tộc, vì hạnh phúc của chính nhân dân. Dướisự lãnh đạocủa Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đã đoàn kết nhất trí vượt qua khó khăn, thách thức, đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Và nhân dân Việt Nam sẵn sàng xả thân để giữ vững giá trị cao cả đó “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(3).

Phát huy tinh thần của bản Tuyên ngôn độc lập, dưới ngọn cờ độc lập và tự do, cách mạng Việt Nam đã từng bước giành được những thắng lợi lịch sử mang tầm thời đại. Sau khi giành được chính quyền không bao lâu,thực dân Phápnúp bóngquân đồng minh quay lại xâm lược nước ta thêm lần nữa, khát vọng độc lập, tự do lại bùng lên vớiý chí,quyết tâm: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(4);“Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”(5). Cũng chính khát vọng độc lập, tự do ấy đã trở thành sức mạnh tổng lực giúp quân và dân ta đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975,hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.Độc lập, tự do và hạnh phúc không còn là khát vọng màđãtrở nên hiện hữu trong đời sống của nhân dâncác dân tộc Việt Nam.

Đến khát vọng xây dựng đất nước“phồn vinh, hạnh phúc”

Bước ra khỏi chiến tranh,hậu quả còn rất nặng nề, đời sống người dânhết sứckhó khăn, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trở thành động lực để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta dốc toàn sức lực cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc và kiến thiết đất nước. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã giúp đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.Khát vọng độc lập, tự do, phát triển đất nướccường thịnh,phồn vinh và hạnh phúckhông chỉlàm chodân tộc tathực hiện thành côngnhững kỳ tích trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn tạo nên những bước đột phá trong phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin son sắt để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững vàng bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định“Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta”.

Từ khát vọng hòa bìnhcùng ý chí và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường bảo vệthành côngnền độc lập, tự do của đất nước, từtinh thần lao động, sáng tạo không ngừng,làm nênnhững thành tựu vĩ đại trong công cuộc đổi mới vừa qua củadân tộcđã tạonền tảng,tiền đề vững chắc cho
Đại hội XIII của Đảngxác định được mục tiêu: "…khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…;phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"(6).Đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.Như vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu không phải chỉ cho nhiệm kỳ 2021 - 2025 mà còn tầm nhìn tới 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước và chúng ta gọi đây là khát vọng phồn vinh dân tộc.

Hiện nay,trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo; đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Vì vậy,nhữnggiá trị tư tưởngcủa
Hồ Chí Minh vềđộc lập, tự dovề quyền con người, về khát vọng vươn lên …lại càng có ý nghĩa,là những nhân tố quan trọng thúc đẩy công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đất nước phát triển nhanh và bền vững, dân tộc cường thịnh và trường tồn.Đó là bài học về sựvận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước.Đó là những bài học về tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Bài học vềkhơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường,sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài học vềphát huybản sắcnền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài. Bài học vềkết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;vềý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực. Bài học vềsự kếthợp chặt chẽ giữa đổi mới, ổn định với hội nhập và phát triển, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, sớm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

Xem thêm:

Kim Lưu

(1), (2), (3), (4), (5) Hồ Chí Minh
Toàn tập
, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr.1, tr.1, tr.4, tr.131, tr.480.

6)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 14